Ở bài 1, chúng ta đã có thực trạng của giá tài sản: Vượt xa giá trị sử dụng, giá trị khai thác định kỳ (Yield). Trong bài 2 này, H.P sẽ chỉ ra cho bạn đây không phải là bất thường, đây là tất yếu của cơ chế.
Hiểu cơ chế này, bạn sẽ thấy tầm quan trọng của tài sản để không rơi vào thực trạng ở bài 1. Đừng chỉ hời hợt nó ở: Lạm phát nên giá tăng. Đó chỉ là 1/3 của câu chuyện. Phần còn lại sâu hơn, tàn nhẫn hơn, và quan trọng hơn nhiều.
Đường chéo trong phân chia thu nhập
Nội dung
Gần như mọi quốc gia đều đang theo chủ nghĩa tư bản về kinh tế hoặc biến thể phụ. Thậm chí ngay cả thời đại phong kiến, thì kinh tế vẫn hoạt động theo chủ nghĩa này. Đặc điểm chính là: Cho phép sở hữu tư nhân và động lực lợi nhuận cho chủ sở hữu vốn.
Nó là hướng đi tất yếu để kích thích lao động, sáng tạo, mạo hiểm và tạo ra sản phẩm mới cho xã hội. Nhưng một hệ quả khác luôn luôn xảy ra là nguồn vốn sẽ dồn dần về 1 nhóm.
Khi đủ lâu, phần công sức do vốn sinh ra đủ áp đảo hoàn toàn phần do lao động của toàn xã hội. Cụ thể, cả tiền vốn và người đều làm ra tiền và được chia công. Nhưng công sức thì có giới hạn, có chăm chỉ cũng chỉ có thể theo cấp số cộng. Còn vốn thì cứ cấp số nhân lũy kế dần mỗi năm. Sau 30 năm lũy kế, với 10%/năm thì vốn lúc này đã tăng gấp 17 lần. Càng lâu, con số càng lệch, và đương nhiên sức lao động không tăng kịp như vậy.
Nguồn vốn của người giàu luôn nằm ở tài sản
Lợi nhuận cuối cùng (vốn) được lưu trữ ở đâu:
- Cổ phiếu – Cổ phần: Sở hữu doanh nghiệp, cỗ máy làm ra tiền theo nghĩa đen và nghĩa bóng.
- Tiền – Chỉ là tạm thời, bởi nó sẽ mất giá dần, do đó ai (nhất là người giàu thực sự) cũng có xu hướng chuyển thành một loại tài sản.
- BĐS – Đương nhiên, vẫn là kênh lưu trữ giá trị lớn nhất thế giới.
- Vàng – Kênh truyền thống, dễ mua với vốn nhỏ, dễ lưu.
- Đồ giới hạn: Tranh ảnh, cổ vật, hàng hiệu giới hạn, hàng hóa khan hiếm: Gỗ quý, cổ.
- Coin – Kênh này mới, thêm lựa chọn
Người giàu thậm chí không có nhu cầu quá cao về việc tăng giá tài sản, dù tăng thì tốt. Chỉ đơn giản là nguồn vốn quá khổng lồ, buộc phải phân bổ vào một loại tài sản. Họ không chọn gửi tiết kiệm lấy lãi suất 6 – 8% – Thứ tạo ra lợi tức định kỳ nhưng thực ra lại mất giá thực tế. Họ chọn vàng với 0%, BĐS cho thuê với 1%/năm, cổ phiếu với PE tới 18 (5%/năm). Cũng không cần nó tăng giá năm nay, năm sau. Nó không mất giá là được, ngược lại còn tăng giá nếu thuận lợi.
Nếu bạn có 10 tỷ và mua một miếng đất đầu tư, bạn sẽ quan tâm giá nó lên cao để bán. Nếu bạn có 500, 1000 thì sao? Bạn sẽ không còn quan tâm tới giá của nó nữa. Lên cũng thế, xuống cũng thế, cao bao nhiêu cũng không bán. Bạn đâu cần tiền nữa, và không thể chuyển đổi tài sản về tiền, thứ chắc chắn lạm phát dần. Cứ có tiền thì mua thêm và nắm giữ. Nó là tài sản để lại được cho con cháu, không phải là lướt để kiếm thêm tiền.
Vòng lặp: Những người giàu làm ra tiền, tiếp tục mua tài sản khiến giá tài sản lại tăng cao. Tài sản tăng cao cũng giúp họ kiếm nhiều tiền hơn. Sự chênh lệch về thu nhập đang ở mức rất cao (GINI), nhưng nếu so sự chênh lệch trong tài sản, nó còn khủng khiếp hơn nữa. Và bây giờ thì đang quá nhiều người giàu, dữ liệu về chênh lệch này bạn tự search sẽ thấy.
Chính sách tái cân bằng chưa hiệu quả
Tại sao phải tái cân bằng?
Vì vấn đề đường chéo phân chia trên, nếu không tái cân bằng thì tới một giai đoạn công sức lao động ngày càng hẹp so với vốn. Cứ thêm một năm thôi, là lại một lần vốn lũy kế và mạnh thêm.
Ngoài ra, có rất nhiều chính sách có lợi cho nhóm vốn: Sản xuất kinh doanh, bởi họ là động lực cho sự phát triển xã hội. Thậm chí chính sách tài khóa cũng hướng tới lạm phát nhẹ mỗi năm để kích thích kinh doanh và tiêu dùng. Và tất yếu theo đó là sự chênh lệch ngày càng tiến tới mức ngột ngạt, căng thẳng.
Sự bất bình đẳng sẽ tăng rất cao, các quốc gia buộc phải tái cân bằng lại điều này:
- Thuế TNCN với thu nhập rất cao.
- Thuế thừa kế với tài sản rất lớn
- Thuế tăng giá vốn (gains) tài sản
- Thuế sở hữu lũy tiến với BĐS, chống đầu cơ các loại tài sản
- Kiểm tra để tránh lợi tức quá cao vì gian lận thuế, hàng giả, lừa đảo…
Thực trạng của tái cân bằng hiện nay
Xu hướng toàn cầu
Hiện tại, các quốc gia đều nhận ra vấn đề, nhưng họ không thể làm cực đoan như trước. Toàn cầu hóa, mạng internet đã thay đổi hoàn toàn cuộc chơi. Các quốc gia buộc phải cạnh tranh nhau bằng một mức thuế vừa phải:
Nếu thuế TNCN, TNDN, Thuế tài sản, thuế thừa kế v.v bị đánh quá cao, sẽ có làn sóng dịch chuyển quốc gia. Từ quốc tịch tới nhà máy. Ở mức thuế hiện tại mà các công ty vẫn lập công ty con ở nơi được hưởng lợi về thuế như (Iceland, Singapore v.v). TT Trump thậm chí phải hạ thuế với khoản tiền thu nhập bên ngoài nước Mỹ này từ 25% xuống 15.5% để khuyến khích dòng tiền “hồi hương”.
Thực tế với nước Pháp, sau khi tăng thuế: 2012 tăng thuế lên 75% với người có thu nhập trên 1M Eur. Kết quả giới nhà giàu chạy ầm ầm. Riêng 2015 mất 10K triệu phú, Paris mất 7000 triệu phú (6% số triệu phú). 2017: Buộc phải bãi bỏ thuế tài sản để giữ người giàu ở lại.
Các quốc gia cũng tìm cách fix lỗ hổng này, bằng cách buộc các nước không được áp thuế quá thấp để cạnh tranh (OECD minimum tax 15%). Nhưng nhìn chung còn rất khó khăn, do các quốc gia đều muốn lợi về mình.
Như vậy, không hẳn chỉ vì ưu tiên phe nhà giàu, phe có vốn mà bối cảnh hiện tại khó hơn rất nhiều trong việc kiểm soát họ, tái phân phối tài sản của họ. Đạo cao 1 thước thì ma cao hẳn 2 trượng.
Các quốc gia phát triển đã áp dụng cả 5 biện pháp trên. Không cực đoan như năm 192X ở Mỹ, nhưng vẫn rất đáng nể (Thuế thừa kế từ 40 – 60% ở giới siêu giàu).
Việt Nam: Thuế còn rất sơ khai
Việt Nam mới bước vào tích lũy tư sản, nhưng chúng bùng nổ thực sự rất nhanh. Cả GDP và lạm phát hằng năm đều rất lớn, tổng kho thu nhập đã tăng hàng trăm lần.
Mục số 5 là việc VN bắt đầu làm đáng kể: Xử lý lại thuế, kế khai ngoài doanh thu, các hoạt động SXKD phi pháp, lừa đảo ngày càng chặt chẽ gần đây. Các hoạt động chống tham nhũng bắt đầu diễn ra mạnh mẽ hơn. Trước đây, nó thực sự rất thoải mái, bà chủ một quán ốc nổi tiếng có thể bán nhiều tạ mỗi ngày mà không phải nộp bao nhiêu thuế.
Mục số 1: Thuế TNCN cao nhất: 35% (chỉ ảnh hưởng người lương, không ảnh hưởng người giàu thực sự). Nhưng nó cũng tác động rất đáng kể. Năm 2024 đạt 189.000 tỷ đồng, chiếm gần 10% tổng thu ngân sách trong khi năm 2011 chỉ là 5.3%. Con số nãy sẽ còn tiếp tục tăng rất mạnh
Tuy vậy chúng ta vẫn còn nhiều thứ rất “free”
- Thuế thừa kế: 0%
- Thuế tài sản: 0%
- Thuế gains khi bán BĐS: 2% (trên giá trị giao dịch, không phải lãi)
- Thuế gains khi bán CK: 0.1% (phí giao dịch, không phải thuế lãi)
Kết quả:
Máy nhân tiền chạy không bị phanh gì đáng kể qua nhiều năm. Mức phân chia của vốn ngày càng áp đảo, cuối cùng dồn lên tài sản ưa thích toàn dân là BĐS.
Thêm vào đó, giai đoạn tích lũy tư bản sơ khai, nhiều ‘kênh’ kiếm tiền nhanh chưa bị kiểm soát chặt. Mỗi vụ án kinh tế, tịch thu luôn là hàng trăm sổ đỏ, cả nước hàng nghìn vụ thì bạn có thể thấy dòng vốn đổ vào hàng vạn BĐS. Giá cả tăng là tất yếu, bởi dòng vốn này thực sự là dư thừa, rỗi rãi và không có nhu cầu bán.
Những căn nhà có giá hàng chục tỷ vẫn có thể bán hết hàng ngàn căn chính là bởi có quá nhiều người giàu từ cả đen và trắng. Đầu cơ, lạm phát không tạo ra được điều đó.
Tổng kết thực trạng
Có 2 ý cần rút ra ở đây:
- Chính sách tái cân bằng chưa đủ mạnh ở các quốc gia phát triển do vấn đề tiền có chân, mức chênh hiện nay đã sắp về tới những năm 192x. Chính sách tái cân bằng không đáng kể ở Việt Nam.
- Kết quả của nó là: Người giàu đã quá đông, nắm phần lớn tài sản lẫn thu nhập. GINI thu nhập 0.4, nhưng GINI tài sản lên tới 0.85.
Các tài sản – vốn đã quá lớn để tạo thu nhập tốc độ cao và không phải mọi tài sản đều có thể tạo ra thu nhập. Ví dụ một người sở hữu một căn nhà trị giá 10 tỷ, cho thuê được 15 triệu không chênh lệch thu nhập định kỳ với một người chạy Grab nhiều. Nhưng chênh rất lớn khi so về tài sản.
Bây giờ bạn đã hiểu nghịch lý của bài 1 rồi chứ. Khi bạn quá dư tiền cần giải ngân, bắt buộc phải nắm giữ tài sản thì:
- Vàng : 0% return hàng năm, Quá ngon vì chắc cú, dễ thanh khoản.
- Nhà phố: Cho thuê dc 1 2%/năm, vẫn cứ quá ngon vì không bao giờ mất giá, còn tăng giá nữa.
- BTC: Ôi ánh sáng đây rồi, lưu trữ giá trị, dễ mang xuyên biên giới, thanh khoản nhanh. Có tí biến động giá, nhưng mình đâu cần bán ngay.
- CK: Đương nhiên rồi, nắm giữ công ty nhận cổ tức, tăng trưởng EPS và hưởng sự hấp thụ lạm phát. 5%/năm (PE 20) vẫn ngon hơn nhiều gửi tiết kiệm để nó bào mòn.
Đứng ở góc độ thiếu tiền, bạn sẽ thấy đất còn cao, vàng chẳng có giá trị gì, CK gì mà return quá thấp. Nhưng ở góc độ quá dư tiền, bạn sẽ thấy khác hẳn: Toàn những tài sản tuyệt vời, vì khi so với cầm tiền, nó chắc chắn mất giá, thì chỉ cần không mất đã quý, đừng nói phải tạo ra lợi tức.
Chính sách in tiền cứu, kích thích kinh tế
Nếu hiểu đơn giản bạn sẽ cho là bơm tiền cứu kinh tế gây ra lạm phát. Kết quả khiến giá cả các tài sản tăng cao. Đúng nhưng chưa đủ.
Khi tiền được cung ra, nó không hề được chia đều cho toàn xã hội. Ở phần I bạn đã thấy rất rõ câu chuyện: Nguồn vốn tạo ra lợi nhuận cao hơn cả lao động, tỉ lệ phân chia theo đường chéo. Từ đó mỗi lần bơm tiền, những người giàu sẽ được chia nhiều hơn trong tổng số đó.
Người giàu chiếm được phần lớn số tiền từ cung ra đó, họ lại tiếp tục đổ nó vào tài sản chứ không dùng mua gạo, rau và muối để trữ. Đó là lí do gốc của tài sản tăng giá, không phải là lạm phát. Bởi lạm phát chỉ từ 5 – 8%, thậm chí hạ về 3 4%. Nhưng tài sản tăng giá tới 20 30 60%.
Những năm gần đây, việc này là liên tục. Và hệ quả bạn đã thấy, giá tài sản lên rất khủng khiếp, dù thống kê CPI rất nhẹ nhàng.
Tín dụng vào tài sản
Khi giá tài sản tăng quá cao, người ta nhận thức được cơ hội hoặc vấn đề và bắt đầu hành động. Về sử dụng tín dụng vào tài sản có 2 nhóm:
- Mong muốn nắm giữ tài sản nhanh hơn, nhưng nguồn lực có hạn nên phải dùng tới tín dụng. Đây là những người thực sự mua nhà để ở, nên vay để cố vì thu nhập cách rất xa giá tài sản. Họ sẽ rất mệt mỏi, nhưng cuối cùng cũng sở hữu được tài sản. Nhóm này chính đáng, chỉ là hơi vất vả do giá tài sản quá cao.
- Nhóm mong muốn kiếm lợi nhuận từ xu hướng tăng giá của tài sản nên vay / đòn bẩy để nhanh hơn: BĐS, Chứng Khoán, Coin v.v. Nhóm này đa số sau đó chết một cách nghiệt ngã bởi lòng tham áp đảo kinh nghiệm và trình độ.
Giá các tài sản có vẻ rất “ngáo”, nhưng nó sẽ không đổ vỡ nếu chỉ là tiền vốn thực của người giàu mua rồi để đó. Nó sẽ chỉ thực sự đổ vỡ khi tầng lớp bình dân, hoặc cả giàu có nhưng lại khao khát lao vào bằng tín dụng. Giá tiếp tục được đẩy lên tới khi không còn lực hấp thụ nữa. Không có tín dụng tan nát thì dù thanh khoản cả năm không bán được, giá vẫn đứng đó. Đơn giản là bởi người giàu sẽ rất đau đầu nếu phải cầm tiền. Bán ra xong rồi làm gì?
Những người thực sự coi tài sản là để giữ giá trị đúng nghĩa không bị ảnh hưởng và cũng không quan tâm. Giá lại bùng nổ ở chu kỳ kế tiếp. Chỉ có những người dùng tín dụng vội vàng là thất bại trong cuộc chơi kiếm tiền.
Chính sách nắn dòng tiền vào tài sản
Sở hữu tài sản là hợp pháp và được khuyến khích. Không phải tài sản nào cũng giống nhau, các tài sản có lợi ích rõ rệt thì các quốc gia đều cố gắng khuyến khích hoặc ít hạn chế loại tài sản này:
- Bất động sản có giá trị sử dụng thực tế, có nhà ở thay vì đất phân lô để hoang.
- Chứng khoán: Sơ cấp tạo vốn cho doanh nghiệp, thứ cấp tạo thanh khoản và chuyển nhượng cổ phần dễ dàng.
- Đổ vốn trực tiếp vào tài sản làm việc: Máy móc, nhà xưởng
Xu hướng giữ tài sản đơn giản như vàng, bất động sản là rất tự nhiên. Và dòng vốn thì cứ thứ gì hiệu quả, đơn giản và có lợi nhuận thì người ta làm. Chỉ có thể điều chỉnh nó bằng chính sách, không thể bằng kêu gọi.
Dòng vốn nước ngoài
Dòng vốn nước ngoài có thể đổ vào các tài sản rất nhanh nếu cơ chế cho phép. Nó có thể khiến giá tài sản biến động rõ rệt, dễ thấy nhất là trên TTCK. Không cần vì lí do gì, thêm một kênh vốn đổ vào là giá lại tăng.
Lời kết
Với cơ chế đã nêu ở trên, xu hướng tăng giá của tài sản là tất yếu. Lạm phát làm tăng giá tài sản, nhưng sâu xa hơn nó là các động lực khác hẳn. Mức giá của các tài sản do tổng dòng tiền chảy vào nó. Nó không đơn thuần đến từ lợi ích thực tế (Yield return) để định giá hay lạm phát.
Lạm phát không giải thích được vàng tăng 12%/năm
Nếu chỉ là lạm phát thuần túy, vàng USD chỉ nên tăng 3-4%/năm (theo lạm phát Mỹ). Nếu thêm premium “giữ giá trị”, tối đa 5%/năm.
Thực tế: Vàng tăng 12%/năm.
Chênh lệch 7-9%/năm này đến từ đâu?
Nó là kết quả của dòng vốn quá dư thừa. Khi vốn không có chỗ trú ẩn, nó đổ vào BẤT KỲ TÀI SẢN NÀO: Vàng, BĐS, CK, BTC… Tất cả những người nắm giữ tài sản, dù là loại gì, đều được chia lợi quá mức từ cơ chế này.
Kết quả: Hold tài sản hiệu quả hơn sản xuất kinh doanh, lao động – như thực trạng ở bài 1. Đó chính là điểm khác biệt giữa người có tài sản và người không có: Người có tài sản tự động hưởng 8-10%/năm (ngoài lạm phát) mà không cần làm gì. Người không có tài sản phải vã mồ hôi lao động, sản xuất mới hy vọng kiếm được con số đó.
Vốn vừa phải thì tài sản ngon mới có giá. Vốn quá dư thừa thì cứ là tài sản là mua bất chấp. Và dòng vốn thì do tổng tích lũy tư bản và tín dụng quyết định. Không chỉ đơn giản là cung tiền năm nay có tăng không, lạm phát bao nhiêu, GDP bao nhiêu, lãi suất bao nhiêu mà phải là: Những người giàu có nắm quá nhiều vốn không? Tín dụng đổ bao nhiêu vốn vào tài sản?
Chúng ta vẫn có những nguyên nhân cục bộ của tăng giá: Thuế quan, hạ lãi suất, quy hoạch v.v. Đổ vỡ chỉ xảy ra khi tín dụng quá nóng hoặc chính sách can thiệp để cân bằng, còn không thì giá có cao tới đâu nó cũng mãi ổn định và tăng lên tiếp tục.
Câu chuyện Buy, Borrow and Die là một bài học.
Nhóm có tài sản, thế chấp nó để vay tiền sử dụng chứ không bao giờ bán tài sản. Bởi theo thời gian tiền luôn mất giá hơn tài sản, đủ lâu họ còn có lời từ việc đi vay. Nhóm này không phổ biến ở Việt Nam nhưng cực phổ biến ở nước ngoài.
- Buy (Mua): Mua tài sản và giữ mãi (BĐS, CK, vàng)
- Borrow (Vay): Thế chấp tài sản, vay tiền lãi thấp (3-5%) để tiêu dùng hoặc đầu tư thêm
- Die (Chết): Chết mà không bán tài sản -> Con thừa kế, tránh thuế gains và hưởng lợi từ việc luôn giữ được tài sản, tiền vay thì lạm phát mất giá dần.
Apple, Google v.v ngồi trên núi tiền mặt cũng vẫn đi vay tiền về sử dụng chứ không chuyển tiền về Mỹ để né thuế.
Tại Việt Nam, thuế lợi tức vốn (gains tax) chưa phổ biến, nên giới nhà giàu chưa cần áp dụng điều này. Nhưng cũng đã có người có tài sản, nhưng vẫn đi vay về để dùng, bởi đủ lâu số tiền bao gồm cả lãi vay vẫn trượt giá đi đáng kể.
Cuối cùng, đây là vấn đề của cơ chế, và nó mang tính tất yếu. Chiến tranh, cách mạng thì còn xa (Hard reset), chính sách tái cân bằng cũng rất yếu và chậm (Soft reset). Bạn không thể đảo ngược điều đó, chỉ có thể thuận theo nó.