Quy luật về sự cân bằng từ phía nhà nước
Nội dung
Bạn nghĩ gì khi thấy những điều này:
- Cấm người dân trữ vàng, buộc giao nộp lại cho nhà nước. 1933: Executive Order 6102. Ai giữ vàng tư nhân có thể bị phạt tới $10.000 và/hoặc tù
- Thuế thu nhập cho nhóm thu nhập siêu cao lên tới 94%
- Thuế TNDN lên tới 52%
- Thuế thừa kế với tài sản cực lớn lên tới 77%
Những con số tới mức trong tưởng tượng bạn cũng thấy nó điên rồ. Nhưng thực tế nó đã xảy ra, thậm chí duy trì nhiều năm và ở một quốc gia tiến bộ bậc nhất: Mỹ. Đánh tư sản level max – Nhà nước sẵn sàng can thiệp, thậm chí là thô bạo để đảm bảo xã hội phát triển và ổn định.
Phần lớn thu nhập trong xã hội đến từ 2 nguồn: Lao động và Vốn. Đây chính là 2 phe điển hình trong xã hội. Phe lao động bao giờ cũng chiếm số đông xã hội, phe vốn là số ít giàu có.
Tuy nhiên, trong phe vốn lại có sự phân chia quan trọng:
1. Nhóm SXKD (Sản xuất kinh doanh)
- Sử dụng vốn để tạo ra giá trị: Xây nhà máy, mở công ty, thuê nhân công
- Tạo việc làm, đóng góp cho xã hội
- Nhà nước ƯU ĐÃI: Giảm thuế, hỗ trợ vay, LS thấp
- VD: Doanh nghiệp sản xuất, startup, BĐS cho thuê, BĐS xây dựng
2. Nhóm ĐẦU CƠ (Speculation)
- Sử dụng vốn để kiếm lời từ biến động giá, không tạo giá trị
- Không tạo việc làm, không đóng góp gì
- Nhà nước có xu hướng diệt nhóm này: Thuế nặng, hạn chế, cấm đoán
- VD: Vàng tích trữ, BĐS bỏ hoang
3. Nhóm nhận chuyển giao – Cho tặng, thừa kế
Thường xuất hiện khi thời gian tích lũy tư sản đã đủ lâu. Tránh tình trạng hưởng quá nhiều quyền lợi từ thế hệ trước mà không cần lao động, khiến người chưa có vốn mãi mãi cách một khoảng cách ngày một xa.
Nhà nước (tiêu chuẩn) không ghét người giàu, họ chỉ ghét người hưởng lợi nhưng không đóng góp cho xã hội. Đó là lí do nhóm đầu cơ (đúng thì giàu nhanh lắm), luôn là đối tượng săn lùng của chính sách. Ngay cả nhóm SXKD, mặc dù rất chính đáng nhưng nếu quá giàu, vẫn bị tái phân phối lại. Nó để giữ xã hội không sụp đổ.
Sự cân bằng quyền lợi 2 phe và tái phân phối định kỳ chính là thước đo độ dài một triều đại phong kiến. Một triều đại mới chỉ là chu kỳ tái phân phối bằng bạo lực. Tuy vậy giai cấp lãnh đạo gần hơn với phe vốn, gắn chặt quyền lợi. Đó là lí do cho những thay đổi chậm trễ, thậm chí là không có.
Theo tôi, về mặt kinh tế, một nhà nước điều hành tốt phải đảm bảo các yếu tố sau:
- Tạo cơ hội cho người có năng lực, khát vọng. (Ví dụ: LS thực âm, lạm phát để khuyến khích vay. Thậm chí miễn thuế, ưu đãi thuế ở 1 số lĩnh vực muốn ưu tiên). Tức là có ưu tiên cho phe vốn, nhưng sử dụng trực tiếp trong SXKD.
- Đảm bảo quyền lợi cơ bản của đa số nhân dân, là tầng lớp trung lưu trở xuống. (BHXH, lương tối thiểu, công đoàn, luật lao động v.v)
- Liên tục xem xét để cân bằng quyền lợi 2 nhóm. Ví dụ tái phân phối qua thuế tài sản, thuế thừa kế, thuế TNCN. Chống các hoạt động đầu cơ: Dùng thuế rất nặng để hạn chế lợi nhuận sinh ra từ vốn nhờ các hoạt động không có ích cho xã hội (BĐS bỏ hoang, vàng v.v). 2 mục đích rất rõ ràng: Đưa dòng vốn trở lại SXKD và tránh người giàu có nhiều cơ hội kiếm tiền nhưng không tạo ra giá trị gì.
Tại sao chúng ta cần đến sự cân bằng:
- Nếu phe lao động chiếm quá nhiều lợi thế: Không có người đứng ra làm chủ do chi phí lao động quá cao, lợi nhuận mỏng không thúc đẩy động lực sản xuất kinh doanh. Kết quả cuối cùng, kinh tế teo tóp, chính người lao động sẽ bị tác động ngược lại. Cuối cùng tất cả cùng nghèo và sụp đổ cơ chế.
- Nếu phe vốn chiếm quá nhiều lợi thế, khoảng cách giàu nghèo ngày càng chênh lệch do người giàu cứ sử dụng nguồn vốn để tạo ra lợi nhuận nhanh chóng. Bất bình đẳng xã hội nổ ra, lại sụp đổ để phân chia lại tài sản.
- Phe vốn cần được tạo ưu thế nhất định, bởi đó là động lực họ tham gia vào SXKD, mà người lợi cuối cùng là toàn xã hội.
Nhưng chính sách không thể điều chỉnh tức thì, mà thường có độ trễ đáng kể so với thực tế xã hội. Thậm chí, nó thường chỉ được điều chỉnh khi mọi thứ đã quá mất cân bằng, chỉ có lựa chọn: Sửa hay là chết.
Ví dụ về sự cân bằng của nước Mỹ
Ta hãy xem ví dụ về hành trình điều chỉnh cân bằng 2 phe liên tục của nước Mỹ. Vì dữ liệu dài nên H.P sẽ thu gọn lại để bạn đọc cho hiệu quả.
- 1% giàu nhất cầm 40% tài sản. Gini 0.50
- Công nhân: 12-16h/ngày, 6-7 ngày/tuần, trẻ em 8 tuổi làm việc
- Không có: lương tối thiểu, nghỉ phép, bảo hiểm, nghỉ cuối tuần
- Rockefeller = $400B (theo tỉ giá quy đổi), công nhân = $400/năm
- Biểu tình bạo lực: 1877 (100 người chết), 1886 Haymarket (8 chết), 1892 Homestead (16 chết), 1894 Pullman (30+ chết)
Chính phủ tái cân bằng lại lần 1
1901-1909: Theodore Roosevelt
- Chống độc quyền: Phá Standard Oil thành 34 công ty (1911), phá Northern Securities
- Hỗ trợ lao động: Trọng tài đình công ngành than (1902) – lần đầu tiên chính phủ không đàn áp công nhân
- Quy định: Pure Food & Drug Act, Meat Inspection Act (1906)
Kết quả: 1% giàu: 40% → 35% tài sản. Gini: 0.50 → 0.48
1913-1921: Woodrow Wilson
- Thuế: Tu chính án 16 – Thuế thu nhập lũy tiến (1913): 1-7%.
- Thuế thu nhập cho nhóm rất giàu tăng lên 15% vào 1916, 67% vào 1917 (Tiền phục vụ War I), đỉnh điểm là 77% vào 1918. Quy đổi thì mức 22 triệu đô hiện nay sẽ bị đánh ở mức 77%.
- 1916: Thuế thừa kế 1 – 10%, người giàu chết cũng cần đóng góp cho quốc gia (Số tiền tương đương >1 triệu đô hiện nay mới phải chịu thuế)
- Lao động: Clayton Act (1914) – công đoàn hợp pháp, đình công được bảo vệ
- Trẻ em: Keating-Owen Act (1916) – cấm trẻ <14 tuổi làm việc
- Giờ làm: 8 giờ/ngày cho công chức liên bang (1916)
- Fed: Ngân hàng Trung ương (1913) để điều tiết kinh tế
Quyền lợi công nhân đã gia tăng nhanh chóng để đảm bảo cân bằng xã hội. Những người giàu bắt đầu bị cắt một phần đáng kể để tái phân phối toàn xã hội.
- War 1 kết thúc, thuế thu nhập bắt đầu giảm dần, về mức 25% (1926) để kích thích SXKD
- Fed bơm tiền, hạ lãi suất
- Công nghệ, tiêu dùng, công nghiệp bùng nổ
- Team nhà giàu vừa đá bóng vừa thổi còi. Trong giai đoạn này, hầu như không có SEC, không có giới hạn margin, không có bảo hiểm tiền gửi. Tức là nếu bạn giàu và bạn thao túng thị trường, đó không phải là tội. Đó là mô hình kinh doanh hiệu suất cao. Giao dịch nội gián lúc đó về cơ bản chưa bị coi là tội
Kết quả: Nhóm cầm vốn, có vốn nhanh chóng giàu lên theo cấp số nhân. 0.1% giàu nhất cầm 25% tài sản, 1% cầm 44.2%, Gini 0.51 (tệ hơn cả giai đoạn 1). Lợi nhuận doanh nghiệp tăng 60%, lương công nhân tăng 8%.
Phía sau sự mất cân đối này chính là đại khủng hoảng. 1929 – TTCK nổ bong bóng, mất 90% giá trị. Thất nghiệp: 3% → 25%, GDP: -27%, 10,000 ngân hàng phá sản. Đói khát, vô gia cư hàng triệu, tự tử tăng gấp đôi.
CP đã can thiệp quá chậm trong trường hợp này. Gần như không có động thái gì để mọi thứ phình to quá mức.
1933-1945: Franklin D. Roosevelt – “SỬA HAY CHẾT”
Bảo vệ lao động:
- 1935: Wagner Act – Công đoàn toàn quyền, tập thể thương lượng bắt buộc. Thành viên công đoàn: 3M → 15M
- 1938: Fair Labor Standards Act – Lương tối thiểu $0.25/h, tuần 40h, OT 1.5x, cấm lao động trẻ em
- 1935: Social Security – Hưu trí, bảo hiểm thất nghiệp, trợ cấp người khuyết tật
Quy định tài chính:
- 1933: Glass-Steagall – Tách ngân hàng thương mại/đầu tư, FDIC bảo hiểm tiền gửi
- 1934: SEC – Ủy ban chứng khoán, quy định thị trường, cấm giao dịch nội gián
Thuế cực nặng:
- Thuế thu nhập cao nhất: 25% → 79% (1936) → 94% (1942-45)
- Thuế doanh nghiệp: 40%, Thuế thừa kế với khối tài sản siêu lớn lên tới ~77%
- Người giàu chuyển sang cho tặng trước khi chết để tránh thuế thừa kế. Thuế quà tặng hoàn thiện (1932) ra đời để vá lỗ hổng này.
Kết quả: 1% giàu: 44% → 23% tài sản. Gini: 0.51 → 0.38. Lương NLĐ thực tế +50%. Lưu ý: Đây không chỉ là “cứu người nghèo”, bởi giữ thêm là toang luôn hệ thống là bình thường.
- Thuế thu nhập cao nhất: 91%, Thuế doanh nghiệp: 52%
- CEO: 20x lương công nhân, Gini: 0.38-0.39 (thấp nhất lịch sử Mỹ)
Kết quả:
- Tăng trưởng GDP: 3.9%/năm, Năng suất: +2.8%/năm
- Lương median +75% (1947-1973) – theo sát năng suất
- Tầng lớp trung lưu: 40% tài sản quốc gia
- Sở hữu nhà: 62% (tăng từ 44%), Đại học: phải chăng, Hưu trí: an toàn
Đây là lần hiếm hoi trong lịch sử Mỹ mà đa số dân thường không chỉ sống được, mà còn tích lũy tài sản thật: nhà riêng, lương hưu, học đại học giá rẻ cho con. Được đánh giá là một trong những giai đoạn tốt nhất của nước Mỹ.
1981-1989: Ronald Reagan – “Trickle-down economics”
- Giảm thuế: Cao nhất 70% → 28%, Doanh nghiệp 46% → 34%, Capital gains giảm
- Bỏ quy định: Hàng không, ngân hàng, viễn thông, môi trường
- Đập công đoàn: 1981 sa thải 11,000 nhân viên kiểm soát không lưu, gửi tín hiệu “chúng tôi sẽ đập tan công đoàn”
Kết quả: 1980-90: 1% giàu nhất thu nhập +60%, 90% dưới +5%. Gini: 0.39 → 0.43, Năng suất +50%, lương median +10%. Mọi tỉ lệ trở về giống giai đoạn người có vốn quá lợi thế trước đó.
Kể từ 1990 tới nay, gần như không có chính sách nào đáng kể về phe NLĐ. Lương tối thiểu liên bang đã đóng băng 16 năm, bất chấp năng suất đã bỏ rất xa. Thậm chí các quyền lợi cũng có xu hướng tiếp tục cắt giảm.
Ngược lại, phe vốn được củng cố qua rất nhiều chính sách:
- 1999: Glass-Steagall bị bỏ – ngân hàng lại được đầu cơ tiền gửi của dân
- Những cuộc bong bóng tài chính nhanh chóng hơn rất nhiều (2000 – Dotcom, 2008 – BĐS)
- Thuế lãi tài sản: Capital gains tax: Xuống 15% (2003) – “tiền đẻ ra tiền” đánh thuế thấp hơn lương
- Công đoàn: Sụt từ 20% → 11% lao động tham gia
- QE vô hạn: Fed in $4.5 nghìn tỷ, lãi suất gần 0%
- 2017: Trump – thuế doanh nghiệp 35% → 21%
Kết quả: 1% giàu nhất: Cầm 32-35% tài sản, Gini: 0.48-0.49 (gần mức 1929). Năng suất +80% từ 1979, lương median chỉ +15%, CEO: 351x lương công nhân (so với 20x năm 1965). Giá nhà: +300%, lương +10% (1990-2020), Học phí đại học: +180%, trước đây học là con đường thoát nghèo. Giờ đây nghèo không đủ tiền để học từ đầu. Nghĩa là nếu bạn sinh ra không có vốn, bạn rất rất khó leo sang phe vốn chỉ bằng lao động nữa.
Qua hệ thống ví dụ lịch sử trên, bạn dễ dàng thấy rằng nước Mỹ cũng không hoàn hảo ngay khi nó thành lập. Nó chỉ liên tục vá lỗi, cân bằng và tiến lên. Nó đã vá rất nhiều lỗi để được như hôm nay, chứ ban đầu nó thậm chí: Người da đen không được coi là người cơ mà.
Đánh giá chính sách hiện nay của nước Mỹ
Chúng ta tách thành 2 vấn đề:
- Chính sách cho nhóm vốn: – Gần như hỗ trợ toàn diện.
- Chính sách với NLĐ – Tầng lớp trung lưu trở xuống: Ít, không đáng kể.
Chính sách cho nhóm vốn
Toàn cầu hóa, mạng internet đã thay đổi hoàn toàn cuộc chơi. Các quốc gia buộc phải cạnh tranh nhau bằng một mức thuế vừa phải:
Nếu thuế TNCN, TNDN, Thuế tài sản, thuế thừa kế v.v bị đánh quá cao, sẽ có làn sóng dịch chuyển quốc gia. Từ quốc tịch tới nhà máy. Ở mức thuế hiện tại mà các công ty vẫn lập công ty con ở nơi được hưởng lợi về thuế như (Iceland, Singapore v.v). TT Trump thậm chí phải hạ thuế với khoản tiền thu nhập bên ngoài nước Mỹ này từ 25% xuống 15.5% để khuyến khích dòng tiền “hồi hương”.
Thực tế với nước Pháp, sau khi tăng thuế: 2012 tăng thuế lên 75% với người có thu nhập trên 1M Eur. Kết quả anh em nhà giàu chạy ầm ầm. Riêng 2015 mất 10K triệu phú, Paris mất 7000 triệu phú (6% số triệu phú). 2017: Buộc phải bãi bỏ thuế tài sản để giữ người giàu ở lại.
Như vậy việc tập trung bóp cổ giới doanh nghiệp, người có vốn bằng thuế đã trở nên rất khó. Chỉ có thể cải thiện chính sách với NLĐ, giúp họ được gia tăng quyền lợi đã bị lãng quên suốt 50 năm nay. Đương nhiên, nó vẫn phải lấy từ người giàu (tiền không thể tự sinh ra), nhưng phải bằng một cách đủ khéo léo chứ không thẳng thừng như giai đoạn trước toàn cầu hóa. Do bây giờ, người ta có chỗ để chạy.
Các quốc gia cũng tìm cách fix lỗ hổng này, bằng cách buộc các nước không được áp thuế quá thấp để cạnh tranh (OECD minimum tax 15%). Nhưng nhìn chung còn rất khó khăn, do các quốc gia đều muốn lợi về mình.
Như vậy, không hẳn chỉ vì ưu tiên phe nhà giàu, phe có vốn mà bối cảnh hiện tại khó hơn rất nhiều trong việc kiểm soát họ, tái phân phối tài sản của họ. Đạo cao 1 thước thì ma cao hẳn 2 trượng.
Chính sách cho nhóm NLĐ
Với nền móng trước đó của luật, thậm chí tận từ di sản của FDR:
- NLĐ vẫn được đảm bảo một nền tảng sống cơ bản (tuyệt đối), tuy nhiên nó ngày càng giảm dần.
- So mức chênh tương đối (Theo tổng phát triển toàn xã hội) thì nó vô cùng thê thảm.
Một bằng chứng không thể chối cãi là tuổi thọ bình quân giảm ba năm liên tiếp giai đoạn 2014 (trước dịch Covid), tỉ lệ tự tử và bất mãn, cực đoan tăng cao.
Sức ép hiện nay đã tạo ra áp lực bắt buộc thay đổi chưa?
Hãy nhìn vào động lực của các cuộc cách mạng:
Phổ biến – Cuộc đấu tranh của người nghèo: Nếu nền tảng sống cơ bản (tuyệt đối) bị giảm quá mạnh, gần như cách mạng chắc chắn xảy ra. Khổ quá thì sẽ có vùng lên đấu tranh. Tuy vậy, hiện tại mức cơ bản hiện tại chưa đủ khiến người ta ngạt thở mà buộc phải ngoi lên. Cái này thì quá nhiều, không cần ví dụ.
Hiếm – Cuộc đấu tranh của người không nghèo: Họ cũng đấu tranh vì quyền lợi của chính họ, không phải cho người nghèo
- Cách mạng Pháp 1879: Giai cấp tư sản đấu tranh với giai cấp quý tộc – Có tiền mà bị khinh thường.
- Cách mạng Mỹ 1776: Cũng không phải từ tầng lớp nghèo khổ, mà từ tầng lớp người Mỹ đã thu nhập cao áp đảo nhưng lại bị coi như công dân hạng 2.
Toàn xã hội bức xúc chính là động lực cho sự thay đổi bắt buộc. Hoặc 1 giai cấp phải cảm thấy khó chịu thực sự, mới đứng lên để đòi quyền lợi. Có một câu nói rất hay: Sự bất công hiện nay mới khiến người ta phải nằm xuống, chứ chưa khiến họ phải đứng lên. Nó mô tả chính xác thực trạng hiện tại.
- Fight for $15 (2012-nay): Bắt đầu từ 200 công nhân fast-food ở New York, phát triển thành phong trào toàn quốc. Đến 2015 trở thành cuộc biểu tình lớn nhất của người lao động thu nhập thấp trong lịch sử Mỹ với 60,000 người ở 230 thành phố. Kết quả: 29 bang tăng lương tối thiểu, $150 tỷ tăng lương cho 26 triệu công nhân.
- Red for Ed (2018-2019): Làn sóng đình công giáo viên lớn nhất kể từ 1986, với hơn 375,000 giáo viên tham gia năm 2018 và 425,000 công nhân năm 2019. Đặc biệt diễn ra cả ở các bang Cộng hòa với công đoàn yếu và luật cấm đình công.
Bài học rút ra
Đây là một bài viết để chúng ta liên hệ về hoạt động đầu tư, không phải bài viết về nghiên cứu xã hội hay giai cấp, bất bình đẳng. Do đó, Data tôi đưa ra chỉ vừa đủ để bạn nhận diện vấn đề và ứng dụng nó:
1, Xã hội được thiết kế để ưu tiên người có vốn hơn một chút (tới rất nhiều). Do đó hãy cố gắng tích vốn, cày cuốc để vào nhóm đó nếu có thể. Phần này chỉ có ý nghĩa giáo dục sâu sắc về việc tích vốn bắt buộc.
2, Luôn đứng về phe vốn trong hầu hết thời gian. Chỉ quan tâm tới phòng thủ dần khi mâu thuẫn 2 phe rất căng thẳng. Phòng thủ không phải vì sợ lỗ, mà bởi nếu có một đợt tái cân bằng: Khủng hoảng – Suy thoái sẽ xảy ra (Ví dụ khi TQ hay bất cứ quốc gia nào siết BĐS). Nó không chỉ là tránh được sụt giảm tài sản, mà còn là cơ hội buy dip cho chu kỳ phe vốn giàu áp đảo lên tiếp theo.
3, Có những giai đoạn xã hội sẽ tạo ra bất công rất lớn giữa nhóm giàu và nhóm bình dân. Thực chất nó luôn tích tụ từ từ hoặc tăng rất đột biến nếu chính sách hỗ trợ.
- Chủ đích tạo ra những doanh nghiệp đủ lớn, buộc phải tạo lợi thế đặc biệt.
- Chính sách tái phân phối tài sản từ người giàu quá trễ vì khách quan hay chủ quan (Thuế thừa kế, thuế tài sản, chống đầu cơ, thuế BĐS lũy tiến v.v)
- Cơ chế phần thưởng cho người sử dụng vốn cao (Lạm phát cao, người đi vay hưởng lợi. Người LĐ bình thường bị bào mòn quá nhanh)
Việt Nam đang có trọn bộ combo này, do đó bạn cảm thấy bức xúc, ngột ngạt vô cùng nếu không thể đứng vào phe Vốn. Ai cũng có gắng găm lấy một vài mảnh đất – đổi phe, ngay cả ở nơi nông thôn xu hướng di cư đi là chính. Có thể nhập phe, nhưng phải hiểu mình ở đoạn nào của giai đoạn, có rủi ro hay không.
Đầu cơ (đặc biệt là BĐS) có lẽ là mảng gây bức xúc xã hội nhất. Bởi nó ảnh hưởng sát sườn tới đời sống người dân. Nhà ở – nhập cư đô thị là nhu cầu tất yếu và hoàn toàn chính đáng. Ở những mảng khác, đa số mọi người chưa quen với những loại thuế kiểu như thừa kế, thuế bán tài sản lãi (gains tax). Thậm chí thuế TNCN khi bán CK lãi của VN cũng cực kỳ đơn giản: 0.1% giá bán.
Thậm chí ở giai đoạn trước, mọi thứ vô cùng lỏng lẻo: Từ thuế TNCN khi bán đất, khai doanh thu khi bán hàng v.v. Bạn có thấy gần đây, nó đang ngày một chặt hơn không?
Phần này để bạn nhận biết thực trạng hiện nay. Có thể tóm tắt như sau:
- Giá BĐS đang là bức xúc lớn nhất giữa nhóm NLĐ và nhóm vốn. Có nguy cơ thay đổi chính sách.
- Những người SXKD, người thu nhập cao sẽ được đưa dần vào chuẩn chỉ về thuế. Điều này làm họ bớt giàu đi đáng kể (các nhóm kinh doanh 2 sổ sách, ca sĩ cũng sẽ có mặt trong danh sách). Bổ sung một nguồn thu thuế rất lớn trong tương lai.
- Chưa rõ về tiến độ tái phân phối tài sản mức độ quyết liệt (Thuế thừa kế, thuế cho tặng tài sản, chống đầu cơ). Tuy nhiên, việc sang tên tài sản cho con sớm nếu không ngại rủi ro (niềm tin con cái) là việc nên làm. Đây không phải là lời khuyên trốn thuế. Đây là lời nhắc rằng chính sách thuế tài sản/tài sản chuyển giao có thể xuất hiện đột ngột, việc bạn làm trước đó là chính đáng. Nhưng có lẽ nó còn rất xa.
4, Sự chênh lệch đạt đỉnh thì đảo chiều?
Thế nào là đỉnh mới là khó? GINI 0.5 hay 0.7 hay bao nhiêu? Dân không đủ ăn hay không đủ ở hay bị cắt Internet? P/I (Hệ số thu giá nhà / năm thu nhập hộ gia đình): 30 – 50? Như đã nói ở trên, nó chỉ tập trung vào phần XH bức xúc nhất: Giá BĐS.
Đây chính là phần trái tim của câu hỏi triệu đô. Là phần ứng dụng toàn bộ những gì ở trên.
Không có bất cứ con số nào đủ để kết luận chính xác điểm đảo chiều chính sách. Nó chỉ phản ánh được nguy cơ có thể xảy ra mà thôi. Thực sự, bạn cần phải đặt cửa, ngay cả khi phân tích các dữ liệu:
- Sự có tâm, có tầm của lãnh đạo. Nhận ra và giải quyết vấn đề khi nó tương đối rõ -> Thay đổi chính sách.
- Áp lực quá căng từ xã hội, tới mức không thể không đổi -> Thay đổi chính sách
Những cuộc biểu tình (nước ngoài mới có), các kỳ bầu cử chính là dấu hiệu để quan sát. Hiểu được hướng đi của chính sách, chiến lược đầu tư sẽ khôn ngoan hơn nhiều. Giọng văn của lãnh đạo: Tăng trưởng, phát triển – Phe vốn. Mà nếu: Cộng đồng, thuế tài sản, quá chênh lệch giàu nghèo thì phe NLĐ
Có một cái khó trong dự đoán ở Việt Nam: Ví dụ thuế lũy tiến BĐS, nó được bàn từ 2012 và vẫn bàn tiếp tới 2025. Không phải người ta không biết làm như thế nào, mà là thời điểm cần thay đổi để tái phân phối lại của cải. Rất khó để biết khi nào là “thật” để đứng đúng bên.
Tôi có những quan điểm của mình về việc này – đương nhiên – nhưng không thể chia sẻ nó ở đây. Nó là những đánh giá cá nhân hoàn toàn, phải chịu trách nhiệm.
Bạn tự chọn việc này, hiểu rằng đoán đúng nó tác động cực lớn tới hiệu quả đầu tư, vị thế tài sản của bạn thậm chí trong nhiều thập kỷ. (Ví dụ phe cầm tài sản – BĐS – đã thực sự thắng rất lớn nhiều năm nay).
Bạn còn nhớ: Nhà để ở, không phải đề đầu cơ và 3 lằn ranh của CT Tập Cận Bình chứ? Nó đảo chiều hoàn toàn vị thế của hàng vạn người. Một công ty liên tục tăng trưởng không ngừng nghỉ trở thành vỡ nợ.
Ngoài vấn đề BĐS có gây bức xúc cao – Có nguy cơ bị hiệu chỉnh, VN hiện vẫn là thiên đường cho phe vốn. Hầu hết các chính sách khác vẫn đang ủng hộ tích lũy tài sản sẽ có lợi thế mạnh mẽ.
5, Câu chuyện thu hộ
Đây là một chính sách chủ động:
Những người giàu và giỏi là rất cần thiết để tạo ra những gì đủ to lớn, bài bản. Đôi khi phải hỗ trợ họ, mặc dù sự hỗ trợ đó là đặc biệt bất công. Tuy vậy, mọi thứ sẽ chấm dứt nhanh chóng khi một minh quân đứng ra xử lý họ và tái phân phối lại quyền lợi cho xã hội. Nó là một giải pháp hay, khi bạn không thể làm được thì tạo điều kiện cho kẻ khác làm, nhưng luôn nắm đằng chuôi.
Hòa Thân là ví dụ kinh điển. Không chỉ tham nhũng, ông còn buôn bán từ ngân hàng tới khách sạn, quán rượu, vũ khí. Cuối cùng gây dựng nên khối tài sản khổng lồ, sau đó nó cũng trở về với Gia Khánh – Tân Hoàng Đế.
Nó không nhất thiết là hành vi cướp tất cả như Hòa Thân, nhưng họ có thể khuyến khích rồi một ngày nào đó làm như nước Mỹ 193x: Thu 77%. Bạn vẫn còn rất khá, nhưng phần lớn đã tái phân bổ lại. Phần thưởng phía trước kia là cơn say để bạn nỗ lực chứ, đâu nhất thiết chia ra xã hội cùng làm ngay từ đầu.
6, Góc nhìn toàn cầu
Những bong bóng tài sản có lẽ sẽ tiếp tục được thổi bùng mạnh mẽ. Tới khi sự bức xúc đạt đỉnh điểm. Chúng ta vẫn còn khoảng trống cho sự “bức xúc” tăng lên mà. Đó có lẽ chính là cơ hội, những vùng mà giá còn chưa lấp max.
7, BTC?
Đương nhiên phe nhà giàu luôn tìm cách lưu trữ vốn đã có tốt nhất. Thậm chí mong muốn sinh lời cao nhất, nhưng trong bối cảnh thuế TN, thuế thừa kế quá cao, bảo toàn thành công đã là cực tốt rồi. Còn nhà nước, luôn tìm cách cắt bớt để tái phân phối.
Trữ bằng BĐS, chính phủ có thuế BĐS lũy tiến. Sang vàng, có gains tax cực nặng với vàng. Để lại cho con: Thuế thừa kế ra mắt, cho tiền con sớm có thuế gift (quà tặng). Mua cổ phiếu: Gains tax: 15 – 20% tiền lãi. Chạy trời không khỏi nắng? Có BTC. Tái phân phối lợi nhuận từ nắm giữ BTC khi họ cashout trong nước thì đơn giản. Nhưng khi họ chuyển đi (khá dễ dàng), khả năng lấy lại tiền và chia lại cho số đông là một thách thức cực lớn. Đây là một lựa chọn rất lớn trong đặt cược vào phe vốn.
Nhìn chung bài viết tôi chia làm 3 phần: Framework để bạn hiểu mô hình. Phần 2 là thực trạng và một số gợi ý đánh giá. Để đưa ra quyết định chính xác, nó thuộc về cá nhân bạn.