Đã bao giờ bạn tự hỏi lợi nhuận của bạn từ đâu mà có chưa? Bài này sẽ giải thích rõ hơn cho bạn về các hình thức tạo thu nhập, ưu nhược điểm, quy luật khi phân phối thu nhập. Từ đó điều chỉnh kế hoạch của bản thân cho hiệu quả hơn.
Tổng kho thu nhập toàn dân
Nội dung
Thu nhập mỗi chúng ta từ nhiều cách, nhưng chúng lấy từ tổng GDP danh nghĩa. GDP danh nghĩa bao gồm: Tổng sản lượng thật + Lạm phát. Đây chính là kho chia cho mỗi chúng ta hàng năm.
V: Velocity – Vòng quay tiền tệ: Hành vi tiêu dùng, tích trữ, đầu tư v.v sẽ quyết định tổng GDP chứ không chỉ mỗi cung tiền là xong.
- Khi M tăng mà V không đổi (hoặc giảm), GDP danh nghĩa chưa chắc tăng thật.
- Khi V tăng, cùng lượng tiền nhưng kinh tế sôi động hơn – lúc đó xã hội “chia” được nhiều hơn.
Tuy vậy cung tiền tác động rất lớn tới GDP danh nghĩa, đặc biệt thẳng vào lạm phát và điều chỉnh hành vi tiêu dùng (Ví dụ phát tiền => Kích cầu). Tức là: Cung tiền cao chỉ là TÍN HIỆU về cơ hội được chia nhiều tiền danh nghĩa. Để CHẮC CHẮN được hưởng lợi, phải nhìn vào GDP thực tăng cao + lạm phát (Tùy xem hoạt động của bạn được lợi hay bị hại từ lạm phát).
Điều này có ý nghĩa gì? Muốn được chia nhiều thì phải nhìn vào:
- Kho lớn : Các nước phát triển, dù tỉ lệ % tăng GDP không còn cao
- Kho tăng nhanh : Các nước có tốc động tăng trưởng kinh tế cao.
- Luôn bám chặt vào tăng trưởng và lạm phát (Dù là làm việc hay đầu tư) để đảm bảo không quá thiệt khi chia tiền.
Các hình thức tạo ra thu nhập
Tổng thu nhập của mỗi người tạo thành tổng kho GDP. Nhưng chính tổng kho này cũng tác động ngược tới thu nhập từng người. Có 4 hình thức tạo ra thu nhập:
- Lao động
- Vốn
- Chuyển giao
- Chiếm đoạt
Bạn có thể có đồng thời nhiều nguồn thu nhập. Ví dụ: Vừa nhận thừa kế từ bố (Chuyển giao), vừa đi làm (Lao động), vừa cho thuê nhà (Vốn), chiếm đoạt (lừa tiền lì xì của con).
Cũng có những nguồn thu nhập đòi hỏi nhiều hơn một hình thức: Ví dụ tự kinh doanh: Nó bao gồm Lao động và Vốn.
Lao động
Đây là nguồn thu nhập phổ biến nhất, chiếm 65-70% GDP của hầu hết các quốc gia. Bạn bỏ ra effort – nhận về tiền. Dừng làm = hết tiền.
Thu nhập từ lao động được tính theo công thức:
Thu nhập lao động = Giờ làm × Năng suất × Vị thế đàm phán × (1 + Phần bù rủi ro)
Năng suất bao gồm: Kỹ năng chuyên môn, kỹ năng quản lý, trình độ học vấn, kinh nghiệm.
Vị thế đàm phán: Phụ thuộc cung cầu thị trường, công đoàn/luật lao động, và độc quyền kỹ năng.
Phần bù cho rủi ro:
- Nghề nguy hiểm (thợ mỏ, lính cứu hỏa, thợ lặn biển sâu): +20-50% so với lương cơ bản
- Nghề bất ổn (freelance, commission-based): +10-30%
- Nghề ổn định (công chức, nhân viên văn phòng): ≈0%
Ví dụ để hình dung:
- Nhân viên văn phòng: 160h/tháng × 100k/h = 16M/tháng
- Grab chăm chỉ: 260h/tháng x80k/h = 20.8M/tháng
- Freelancer cùng skill: 16M × 1.2 (Rủi ro bất ổn) = 19.2M/tháng
- Thợ hàn tàu ngầm: 16M × 3 (Rủi ro cao + kỹ năng đặc biệt) = 48M/tháng
- Lính đánh thuê: 30M X 6 (Siêu rủi ro tính mạng) = 180M / tháng
Nhìn chung thu nhập phụ thuộc chủ yếu vào Năng suất và Phần bù rủi ro là chính. Hoặc là trình độ cao, hoặc là phải đánh đổi nhiều. Thu nhập lao động tăng theo tuyến tính – gấp đôi giờ làm thường chỉ gấp đôi thu nhập, chứ không tạo đột phá.
Vốn
Thu nhập từ vốn chiếm 25-35% GDP, nhưng tập trung ở nhóm người giàu. Đây là cách “tiền đẻ ra tiền” – bạn không cần làm việc vẫn có thu nhập (hoặc có thể mất tiền nếu đầu tư sai).
Công thức thu nhập từ vốn
Thu nhập từ vốn được tính:
Thu nhập từ vốn = Vốn đầu tư x Lợi nhuận cơ bản × (1 + Phần bù rủi ro)
Trong đó:
- Vốn đầu tư: Tổng tiền vốn hay tài sản bỏ ra (Kể cả máy móc, nhà xưởng, BĐS)
- Lợi suất cơ bản: Khác nhau với từng phương pháp. Chỉ xác định rõ ở phương pháp dòng tiền đều.
- Phần bù rủi ro tùy lĩnh vực sẽ có nhiều mức khác nhau. Ngoại trừ tiết kiệm là cố định ra, phần bù rủi ro của các kênh đầu tư khác luôn biến động chứ không cố định (dưới chỉ là minh họa):
- Rủi ro thấp (tiết kiệm, TPCP): 0% (Không được cộng tí nào trong thu nhập, nhưng có lợi ích ngầm chi phí cơ hội khi biến động)
- Rủi ro vừa phải (Vàng): +5%: Vẫn có rủi ro từ biến động giá, đu đỉnh như thường.
- Rủi ro trung bình (BĐS): +10-20%
- Rủi ro khá – cao (CP): +10-30%
Các loại thu nhập từ vốn
Thu nhập từ vốn được chia thành 4 nhóm dưới đây. Nguồn vốn có thể có một hoặc nhiều loại nguồn thu: Ví dụ như vàng chỉ từ tăng giá tài sản. Nhà cho thuê: Từ cả tăng giá tài sản lẫn dòng tiền định kỳ.
Thu nhập định kỳ – dòng tiền đều (Yielding – EV Dương)
- Cho vay: Lãi suất từ tiết kiệm (3-5%/năm), trái phiếu (5-8%/năm), P2P lending (10-15%/năm)
- Cho thuê: Nhà (1- 5% rental yield/năm), xe, thiết bị, bản quyền
- Sở hữu doanh nghiệp: Cổ tức từ cổ phiếu (2-5%/năm), chia lợi nhuận kinh doanh
Tăng giá tài sản (Capital Gains – EV bất kỳ)
- Bán nhà/đất lời: Mua 2 tỷ năm 2020, bán 3.5 tỷ năm 2025 → Lời 1.5 tỷ
- Bán cổ phiếu lời: Mua VN30 năm 2020, giá tăng 80% năm 2025
- Lưu ý: Chỉ nhận được khi BÁN (realized gains). Lợi nhuận thực tế là giá bán – giá mua.
Cược xác suất – Đầu cơ (Thường có EV âm)
- Xổ số: Bỏ 10k, nhận 350 tỷ. Cần vốn và rủi ro mất 99.99(5 – 10 chữ số 9 nữa) % để đánh đổi.
- Đánh bạc với nhau: Zero-sum game, cả hai tự nguyện
- Futures, Option: Đây cũng là thu nhập từ vốn. Long Short dùng vốn đang có tạo ra thu nhập hoặc tự nguyện biến thành thu nhập của người còn lại (Sau fee sàn)
Một số lý thuyết tài chính sẽ cho rằng các hoạt động này không phải tạo lợi nhuận từ vốn đúng nghĩa (xếp riêng một nhóm – Gambling). Thực tế, nó chỉ là một trường hợp rất đặc biệt trong bỏ vốn mà thôi. Để có tiền thu về, bạn vẫn phải bỏ vốn ra. Việc xếp loại thành một hình thức tạo thu nhập riêng, luôn phải đảm bảo rằng nó có thể đứng độc lập mà không sử dụng bất kỳ hình thức nào khác.
Đây là khoản bỏ vốn không được khuyến nghị cho đa số.
Phần bù rủi ro và bài học thực tế
- Gửi tiết kiệm 1 tỷ × 5%/năm = 50M/năm (thụ động – không có hệ số rủi ro)
- Cho thuê nhà: 10 tỷ x 2% = 200M/năm (hệ số rủi ro nhỏ, không tác động đáng kể tới lợi nhuận)
- Đầu tư BĐS: 5 tỷ x 7% x 1.2 (Hệ số phần bù rủi ro) = 420 tr
- Đầu tư cổ phiếu: 500M x 8% x 1.4 (Hệ số phần bù rủi ro) = 160 tr
- Mua Vietlott: Vì xác suất mất gần như tất yếu, nên hệ số phần bù rủi ro cũng vô cực. Return: 12 – 400 tỷ, Có cái đa số không được nhận.
Thu nhập từ vốn chủ yếu là cuộc chơi của những người giàu và đã có tích lũy. Nếu như lao động, bạn có thể cày thêm bằng tăng thời gian, kỹ năng thì thu nhập từ vốn lại chỉ có 2 yếu tố: Tổng vốn và phần bù rủi ro. Những người mới bắt đầu thì ít vốn, và họ cố gắng tăng thu nhập bằng gia tăng rủi ro. Hệ quả là thường thua lỗ hoặc mất luôn vốn.
Phần bù rủi ro trong thu nhập từ vốn có thể gia tăng bằng 2 cách:
- Liều (May mắn có thể gánh, xui thì thua). Nên hạn chế nó.
- Dùng kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng để giảm bớt rủi ro cho cùng một hiệu suất ROI. Lại yêu cầu cực kỳ trình độ.
Nhận chuyển giao
Bản chất: Nhận tiền/vốn mà không cần trao đổi giá trị tương xứng.
Chiếm 5-10% GDP, chủ yếu từ chính sách xã hội và hỗ trợ gia đình. Đây là thu nhập một chiều – bạn nhận mà không cần đưa gì lại (hoặc chỉ đưa rất ít).
Phần này thì dễ hiểu nên không cần viết nhiều. Chúng là trợ cấp xã hội, nhận thừa kế, quà tặng v.v. Không đi làm, không có vốn nhưng 80 tuổi nhà nước vẫn sẽ trợ cấp cho bạn vài trăm ngàn mỗi tháng. Hay nếu bố bạn giàu, bạn vẫn có 2 tỷ để chi tiêu.
Chiếm đoạt
Bản chất: Lấy tiền của người khác mà KHÔNG có sự đồng ý thực sự.
Chiếm 0-2% GDP (ước tính nền kinh tế ngầm), luôn luôn bất hợp pháp. Đây không phải là trao đổi thật sự vì thiếu “sự đồng ý được thông báo” hoặc “tự nguyện”.
Trộm cắp, lừa đảo sẽ nằm ở nhóm này. Ví dụ: Cờ bạc bình đẳng, chứng khoán thông thường thuộc nhóm thu nhập từ vốn. Nhưng gian lận và thao túng thì thuộc nhóm chiếm đoạt. Kể cả khi nó có bỏ vốn lẫn lao động thì vẫn thuộc nhóm này. Trong thời đại số hóa, các hình thức chiếm đoạt ngày càng nhiều và nguy hiểm.
Không có gì để bình luận: Đơn giản là tránh xa hình thức này, nó vi phạm cả pháp luật lẫn lương tâm.
Nguyên tắc phân chia tổng kho thu nhập
Tổng thu nhập thực (bao tăng trưởng):
- Nhóm thu nhập từ vốn ăn nhiều, ăn trước.
- Nhóm lao động ăn ít, ăn sau
- Nhóm chuyển giao ảnh hưởng rất ít, chậm
Phần thừa – Lạm phát:
- Nhóm thu nhập từ vốn: Được bảo vệ, thậm chí gia tăng lợi nhuận. Tài sản (BĐS, cổ phiếu, vàng) tăng giá theo/nhanh hơn lạm phát. Người có nợ được hưởng lợi khi nợ mất giá thực
- Nhóm lao động: Bị thiệt hại nặng nề, trừ các ngành nghề có hiệu suất cao, thu nhập từ lương đuổi kịp lạm phát.
Lời kết
Với tất cả những gì đã đọc, bạn đã hiểu tầm quan trọng của tạo thêm thu nhập từ vốn. Chúng ta phải đánh đổi thêm thời gian, rủi ro sức khỏe và nỗ lực cải thiện kỹ năng để gia tăng thu nhập từ lao động. Chỉ có như vậy mới có thể tích được vốn.
Bổ sung kênh thu nhập từ vốn không chỉ gia tăng hiệu suất (bởi sức người có hạn, không thể bốc 1 vạn tấn xi măng mỗi ngày để tăng thu) mà còn giảm thiểu rủi ro cuộc sống. Bạn có thể ốm (mất nguồn thu), chứ nhà cho thuê và tiền thì không.
Nhận chuyển giao – thừa kế thì bạn không được quyền chọn người sinh ra, nhưng được chọn bố mẹ vợ – chồng. Cân nhắc việc này hoàn toàn không xấu, miễn bạn không bất chấp mọi thứ.
2 hướng chính cho đa số là lao động và vốn. Cả 2 đều không có chuyện an nhàn mà hiệu suất cao. Chúng đều phải đánh đổi bằng rủi ro và công sức. bạn theo mục tiêu cuộc đời để chọn hướng, không nhất thiết chọn gì. Hiểu về sự đánh đổi, ngay cả khi chỉ bỏ mỗi tiền là được.
Phải bổ sung tài sản nào, ngành nghề nào, kênh nào sẽ hưởng lợi chính xác ra sao từ: Tăng trưởng, lạm phát, mới rõ hoàn toàn được ý nghĩa bài này. Nhưng nó sẽ quá dài, chúng ta sẽ có ở bài so sánh các kênh phân bổ vốn.
Hoài Phong